Trong tháng 8/2019, Nhóm nghiên cứu do ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, làm Chủ nhiệm đã tổ chức bảo vệ đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ với chủ đề “Nghiên cứu định hướng xây dựng chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030” (Đề tài). Hội đồng khoa học chuyên ngành của Bộ Tài chính nghiệm thu Đề tài và xếp loại Giỏi.
Việc nghiên cứu đề tài xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cần có một nghiên cứu trong việc xây dựng định hướng vay trả nợ và quản lý nợ giai đoạn 2021-2030 nhằm tham mưu cho các nhà hoạch định chính sách đánh giá tác động của nợ công lên cán cân ngân sách và diễn biến quy mô nợ công theo các kịch bản tăng trưởng kinh tế, diễn biến vĩ mô và nhu cầu huy động vốn của nền kinh tế, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn nợ trong giới hạn cho phép.
Giai đoạn 2011-2016, nợ công có xu hướng tăng nhanh, từ mức 50% GDP năm 2011 lên 63,7%GDP năm 2016, tiệm cận mức giới hạn 65% được Quốc hội phê chuẩn, gây áp lực lên tính bền vững nợ của Việt Nam. Trường hợp vẫn duy trì điều hành các chỉ tiêu nợ, bội chi như giai đoạn 2011-2018, các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, lạm phát vẫn diễn biến theo hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng đến các chỉ tiêu an toàn nợ giai đoạn 2021 – 2030.
Diễn biến nợ công và nợ nước ngoài quốc gia so với GDP giai đoạn 2011-2018
Mục tiêu của Đề tài là khẳng định tầm quan trọng của công tác quản lý nợ công thông qua điều hành chiến lược nợ hiệu quả, đánh giá thực trạng nợ công Việt Nam trong thời gian qua, những kết quả đạt được và chỉ ra những bất cập khó khăn còn tồn tại để qua đó đề xuất giải pháp quản lý phù hợp. Từ tình hình và thực trạng quản lý nợ công, đề tài đề ra quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cho giai đoạn 2021-2030, phù hợp với thông lệ quản lý nợ tốt trên thế giới và đã được nhiều nước áp dụng, góp phần tăng cường hiệu quả công tác quản lý nợ công của nước ta trong thời gian tới.
Đề tài là cơ sở giúp Bộ Tài chính xây dựng, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt Chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030. Đây cũng là nghiên cứu định hướng giúp Bộ Tài chính xây dựng các kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 và chương trình quản lý nợ công 3 năm trong những năm tới theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, dự kiến trần và ngưỡng cảnh bảo nợ giai đoạn 2021-2025 và 2026-2030 như sau:
Giai đoạn 2021-2025:
- Về trần nợ: nợ công hàng năm không quá 60% GDP, nợ Chính phủ hàng năm không quá 52% GDP.
- Về ngưỡng cảnh báo về nợ: ngưỡng nợ công khoảng 58% GDP, ngưỡng nợ Chính phủ khoảng 50% GDP.
Giai đoạn 2026-2030:
- Về trần nợ: nợ công hàng năm không quá 58% GDP, nợ Chính phủ hàng năm không quá 50% GDP.
- Về ngưỡng cảnh báo về nợ: ngưỡng nợ công khoảng 56% GDP, ngưỡng nợ Chính phủ khoảng 48% GDP.
Trường hợp quy mô GDP giai đoạn 2010-2017 được đánh giá lại để làm cơ sở lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Chiến lược phát triển KT-XH giai đoạn 2021-2030, cần tính toán lại các chỉ tiêu về nợ để đề xuất mức trần và ngưỡng cảnh báo phù hợp.
Trên cơ sở mức trần và ngưỡng nêu trên, Nhóm nghiên cứu đã đề xuất một số khuyến nghị chính sách gắn với từng giải pháp thực hiện Chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030, cụ thể như sau:
1. Đáp ứng nhu cầu huy động vốn với mức chi phí và rủi ro phù hợp, kiểm soát các chỉ tiêu về nợ trong giới hạn cho phép
- Việc xây dựng, điều hành thực hiện kế hoạch vay, trả nợ công cần đảm bảo dư địa dự phòng rủi ro cho các nghĩa vụ nợ tiềm ẩn có thể phát sinh. Thường xuyên cập nhật diễn biến kinh tế vĩ mô, điều kiện huy động vốn vay trong nước và nước ngoài... để chủ động xây dựng phương án, trình cấp có thẩm quyền quyết định điều chỉnh mức vay công và các hạn mức nợ tương ứng.
- Mức huy động vốn hàng năm thông qua phát hành TPCP cần phù hợp với khả năng cung ứng của thị trường, tránh áp lực tăng đột biến khối lượng phát hành TPCP, đặc biệt với kỳ hạn dài, gắn với rủi ro phá vỡ mặt bằng vay vốn cho toàn bộ nền kinh tế, gây bất ổn cho thị trường tài chính.
2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay và trách nhiệm trả nợ
- Kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm cần được xây dựng trong khuôn khổ, khả năng cân đối và đảm bảo tính bền vững của chính sách tài khóa. Nâng cao hiệu quả sử dụng đầu tư công, giảm dần sự tham gia từ NSNN (đặc biệt là các khoản vay của Chính phủ) vào các dự án, xã hội hóa các nguồn lực ngoài nhà nước; phấn đấu giảm mạnh chỉ số ICOR của khu vực nhà nước.
3. Tiếp tục tái cơ cấu nợ theo hướng bền vững
- Xây dựng cơ chế huy động vốn vay trên thị trường để tạo bước đệm trong chuyển đổi phương thức huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi sang vay theo điều kiện thị trường sau khi tốt nghiệp IDA, cũng như phương án cân đối nguồn trả nợ tăng thêm khi chính thức bước sang giai đoạn tốt nghiệp IDA.
- Nghiên cứu và phát triển các sản phẩm trái phiếu mới, thực hiện tái cơ cấu danh mục TPCP theo hướng đa dạng hóa các kỳ hạn trái phiếu, trong đó tăng tỷ trọng phát hành đối với các trái phiếu có kỳ hạn dài; thực hiện nghiệp vụ hoán đổi để kéo dài kỳ hạn trái phiếu, hoán đổi các mã trái phiếu có lãi suất danh nghĩa cao đã phát hành trước đây về các trái phiếu theo điều kiện vay hiện tại để giảm chi phí trả lãi vay.
4. Kiểm soát chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà nước, nợ nước ngoài của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng
- Kiểm soát các khoản nợ ngầm tiềm ẩn có thể phát sinh từ nợ của khu vực các doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng trong nền kinh tế có nguy cơ chuyển thành nợ công, ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng nợ do Chính phủ phải vay nợ để giải cứu hệ thống.
5. Phát triển thị trường vốn trong nước
- Tách bạch nghiệp vụ huy động vốn cho đầu tư, vay bù đắp bội chi NSNN với nghiệp vụ quản lý tiền mặt để đảm bảo đệm thanh khoản, theo đó cho phép phát hành tín phiếu, TPCP kỳ hạn ngắn phục vụ mục tiêu quản lý ngân quỹ và hoàn thiện đường cong lãi suất.
- Phát triển thị trường vốn trong nước từng bước theo thông lệ quốc tế, đa dạng hóa công cụ nợ và cơ sở nhà đầu tư, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn và thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu
Đề tài đã được hoàn thiện, nghiệm thu và được chuyển giao cho Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính để khai thác, phục vụ việc xây dựng Chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030./.