Hệ số tín nhiệm Việt Nam và niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài

10:24 AM 08/07/2019 |  Lượt xem: 614 |  In bài viết |    Đọc bài viết send email  Gửi góp ý

Ông Võ Hữu Hiển – Phó Cục trưởng Cục Quản lý Nợ và Tài chính đối ngoại phát biểu tại Hội nghị

Hội nghị chuyên đề kinh tế “Fitch on Vietnam 2019” là hội nghị lần thứ 2 được tổ chức tại Việt Nam (Lần đầu diễn ra vào tháng 6/2018). Hội nghị được tổ chức tại khách sạn Melia với sự tham gia của nhiều đại diện đến từ các Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, đại diện các tổ chức, quỹ tài chính, ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế. Tại diễn đàn này, ông Võ Hữu Hiển – Phó Cục trưởng Cục quản lý Nợ và Tài chính đối ngoại - đại diện Bộ Tài Chính có bài trình bày Tổng quan Công tác xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam.

Tại diễn đàn này đại diện Bộ Tài chính đã chia sẻ: Thực hiện chính sách hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế quốc gia, tạo điều kiện cho việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế cũng như tăng cường trao đổi, minh bạch thông tin kinh tế - xã hội của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng chính phủ Đề án Tăng cường xếp hạng tín nhiệm quốc gia năm và đã được phê duyệt tại Quyết định số 304/QĐ-TTg ngày 06/02/2013 và tiếp sau đó Thủ tưởng Chính phủ ban hành quyết định 61/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 về quy chế phối hợp trong việc cung cấp thông tin và đánh giá Xếp hạng tín nhiệm quốc gia nhằm mục tiêu đến năm 2020 hệ số tín nhiệm Quốc gia của Việt Nam lên mức đầu tư. Năm 2019 và 2020, triển vọng của nền kinh tế Việt sẽ tiếp tục khả quan, kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin vào cải cách môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cũng cố.

Bên cạnh đó còn có những thách thức đối với nền kinh tế như: độ mở kinh tế lớn, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng;  cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung sẽ tác động đến việc chuyển hướng xuất nhập khẩu hàng hóa như: nguy cơ lẩn tránh xuất xứ hàng hóa của một số nước vào Việt Nam; thay đổi chuỗi cung ứng; thay đổi dòng vốn đầu tư; Các nền kinh tế trong khu vực đã có dấu hiệu tăng chậm vì sự suy yếu của các hoạt động kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2018. Đà giảm này diễn ra rộng khắp trong khu vực. Thách thức nội tại của nền kinh tế như: Trình độ công nghệ còn thấp, năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế tuy có chuyển biến nhưng chưa mạnh và chưa thực sự vững chắc.

Các giải pháp cũng được đưa ra để củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế, kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng GDP, trong đó tập trung:

+ Điều hành giá cả thận trọng; kết hợp hài hòa, linh hoạt các chính sách vĩ mô, nhất là chính sách tài khóa, tiền tệ;

+ Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngân sách nhà nước gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính, chống thất thu;

+ Đẩy mạnh hơn nữa rà soát, cắt giảm các thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh bất hợp lý, tạo dựng môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển.

+ Tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng

+ Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu theo Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020 và tầm nhìn đến 2030.

Song song với những mục tiêu đặt ra nhằm cải thiện, phát triển sức mạnh nền kinh tế của Việt Nam, Chính phủ đánh giá việc nâng mức tín nhiệm quốc gia có ý nghĩa rất quan trọng: Một mặt, nâng cao uy tín của quốc gia, mặt khác đây là điều kiện cơ bản khi tham gia vào thị trường vốn quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi khi tiếp cận với thị trường thông qua việc mở rộng cơ sở các nhà đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp. Với việc nâng bậc tín nhiệm, chi phí huy động vốn nước ngoài của cả Chính phủ và doanh nghiệp sẽ giảm đi. Mặt khác, vệc thực hiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia và từng bước nâng cao tín nhiệm quốc gia là yếu tố nền tảng, tạo điều kiện để các doanh nghiệp, ngân hàng, các tổ chức tài chính trong nước tiếp cận, duy trì và cải thiện mức tín nhiệm của riêng mình.

Về phía Việt Nam, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục cải thiện chất lượng công tác XHTN, nhằm truyền tải thông tin đầy đủ, minh bạch phục vụ cho công tác XHTN, nhằm  tăng cường sự tin tưởng của các nhà đầu tư trong nước, quốc tế, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, trong đó có Fitch, tạo điền đề cho những nhận xét tích cực từ các tổ chức XHTN về sự nỗ lực, quyết liệt trong những chính sách điều hành quản lý của Chính phủ và sự phát triển không ngừng của nền kinh tế Việt Nam.

Tại Diễn đàn, đại diện Fitch Ratings đã chia sẻ về những yếu tố để tổ chức này quyết định nâng triển vọng tín nhiệm quốc gia Việt Nam từ mức “Ổn định” lên “Tích cực”, khẳng định duy trì mức xếp hạng BB đó là thể hiện ghi nhận của Fitch đối với thành quả của Chính phủ Việt Nam trong nỗ lực cải thiện chất lượng và hiệu quả điều hành kinh tế. Nền tảng kinh tế vĩ mô của Việt Nam được đánh giá là ổn định, vững chắc, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) mạnh mẽ.

Theo đánh giá của Fitch, Chính phủ Việt Nam tiếp tục quyết liệt thực hiện cam kết củng cố nền tài chính và kiềm chế nợ công và đã thành công trong việc đưa nợ Chính phủ từ mức 53% GDP năm 2016 xuống khoảng 50,0% GDP vào cuối năm 2018. Tổ chức này dự báo nợ Chính phủ của Việt Nam sẽ tiếp tục giảm xuống còn khoảng 46% GDP vào năm 2020.

Toàn cảnh hội nghị

Diễn đàn còn diễn ra 2 phiên thảo luận với sự tham gia của các nhà đầu tư và chuyên gia từ các tổ chức trong nước và quốc tế như: Tập đoàn điện lực EVN, Quỹ đầu tư Manulife, Quỹ đầu tư ngân hàng Quân đội, SSI, HSBC, Dragon Capital… với 2 nội dung chính: Triển vọng kinh tế Việt Nam giữa những thách thức của nền kinh tế vĩ mô và Triển vọng tín dụng Việt Nam – nhà phát hành và quan điểm thị trường.

Trên cơ sở các thông tin kinh tế vĩ mô lạc quan, và nhận định của các chuyên gia đại diện từ các tổ chức tài đầu tư, tài chính, chúng ta hy vọng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam trong thời gian tới sẽ tiếp tục được cải thiện, qua đó nâng cao uy tín quốc gia, giảm chi phí huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường thông qua việc tăng cường khả năng thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư quốc tế.

Hoàng Phương Hà