Trần nợ công là một trong những chỉ tiêu tài khóa chính và việc đưa ra những chỉ tiêu định lượng về tài khóa (về trần nợ công, bội chi cũng như các nguyên tắc chi NSNN) nên được cân nhắc để đảm bảo 3 nguyên tắc quan trọng:
- Đơn giản: khung tài khóa nên bao gồm chỉ tiêu trần nợ công để phản ánh mục tiêu trung hạn, kết hợp với các nguyên tắc và chỉ tiêu điều hành chính sách tài khóa hàng năm phù hợp với trần nợ công trung hạn.
- Linh hoạt: đơn giản hóa và tăng cường tính minh bạch của các quy định pháp lý để đảm bảo các chỉ tiêu đề ra có tính linh hoạt, phù hợp với bối cảnh vĩ mô thay đổi (ví dụ như đảm bảo chính phủ có dư địa tài khóa để điều chỉnh chính sách trong trường hợp xảy ra các cú sốc kinh tế mà vẫn không vi phạm trần nợ).
- Có khả năng thực thi: khuyến khích việc tuân thủ các quy định tài khóa bằng các cơ chế ngoài hình thức xử phạt (do có độ tin cậy thấp). Nguyên tắc này được các quốc gia chú trọng hơn đặc biệt từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Về các chỉ tiêu tài khóa cơ bản theo nghiên cứu của IMF:
(i) Về trần nợ công: đến năm 2015 có khoảng 70 quốc gia trên thế giới quy định mức trần nợ công cụ thể trong khuôn khổ tài khóa. Mức trần nợ công có thể khác biệt giữa các quốc gia nhưng thường rơi vào khoảng 60-70% GDP; với mức trần nợ công 60% GDP là mức phổ biến nhất được các quốc gia và khu vực kinh tế (như khu vực EU, Cộng đồng Kinh tế và Tiền tệ Trung Phi, khu vực đồng tiền chung Đông Caribe…) áp dụng.
Phân phối của 70 quốc gia về mức trần nợ công
Mức trần nợ công thường được các quốc gia xem xét, đánh giá lại cho từng giai đoạn 3-5 năm để phù hợp với thay đổi về cấu trúc của nền kinh tế và đặc điểm chi phí – rủi ro của các nguồn vay vốn của chính phủ trong từng thời kỳ.
Bên cạnh trần nợ công do quốc hội quyết định, nhiều quốc gia đặt ra mục tiêu điều hành nợ công để đảm bảo bền vững nợ, đồng thời để đảm bảo trần nợ không bị phá vỡ trong các kịch bản sốc vĩ mô (ví dụ như trần nợ công của Indonesia hiện ở mức 60% GDP, tuy nhiên chính phủ nước này điều hành để đảm bảo nợ công mục tiêu không quá 30% GDP).
(ii) Về mức bội chi: tỷ lệ 3% GDP là mức bội chi ngân sách danh nghĩa phổ biến nhất được áp dụng trên toàn thế giới; trong đó mức bội chi ngân sách cơ cấu (khi loại bỏ các yếu tố do chu kỳ kinh tế hoặc yếu tố ngắn hạn) phổ biến nhất ở mức 0-1% GDP (tức là tiến tới cân bằng thu-chi NSNN).
Phân phối về trần bội chi ngân sách
Phân phối về trần bội chi cơ cấu
(iii) Về chi NSNN: nhiều quốc gia áp dụng mức tốc độ tăng chi NSNN hàng năm tối đa, thường ở mức 2-4%/năm; một số quốc gia thuộc các thị trường mới nổi áp dụng trần chi NSNN khoảng 30-40% GDP; khu vực EU áp dụng mức tăng bội chi cơ bản hàng năm không quá tăng trưởng GDP danh nghĩa trong dài hạn.
Năm 2017, IMF xây dựng mô hình phân tích nhằm giúp các quốc gia phân tích, xác định trần và ngưỡng an toàn nợ công và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Mô hình này đã được một số quốc gia áp dụng khi xem xét, ban hành ngưỡng an toàn nợ công, cũng như được các chuyên gia IMF vận dụng khi đưa ra khuyến nghị chính sách cho các chính phủ.
Trên cơ sở dữ liệu nợ công của Việt Nam đến cuối năm 2017, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài khóa của nước ta qua các năm, một số khuyến nghị sơ bộ của IMF về giới hạn nợ tối đa, trần và ngưỡng điều hành nợ công như sau:
(i) Về giới hạn nợ tối đa:
IMF khuyến nghị giới hạn nợ tối đa 80% GDP trong trung hạn – theo đó nếu tỷ lệ nợ công vượt quá 80% GDP thì khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam là cao. Trong dài hạn, do tác động lên dư địa tài khóa của việc già hóa dân số, IMF khuyến nghị giới hạn nợ tối đa giảm xuống 72% GDP trong dài hạn.
(ii) Trần nợ công:
Theo phân tích của IMF, trần nợ công so với GDP ở mức 65% của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là phù hợp, theo đó kể cả trường hợp xảy ra các cú sốc vĩ mô, giới hạn nợ tối đa 80% GDP sẽ không bị vi phạm với độ tin cậy 90%.
(iii) Về ngưỡng nợ công mục tiêu:
IMF đánh giá trong giai đoạn tới Việt Nam phải đối mặt với rủi ro vĩ mô gia tăng so với thời kỳ trước, như rủi ro tăng trưởng kinh tế chững lại, mặt bằng lãi suất gia tăng, tỷ lệ mất giá thực đồng tiền cao hơn trước, rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng (liên quan đến tái cơ cấu DNNN, cơ cấu lại khu vực ngân hàng, các khoản vay của chính quyền địa phương…) cũng như chi phí gia tăng do dân số bị già hóa. Vì vậy, trong trung hạn IMF khuyến nghị Chính phủ xem xét đưa ra mục tiêu điều hành nợ công không quá ngưỡng 55% GDP, với mức 65% GDP là trần do Quốc hội quyết định. Ngoài ra IMF khuyến nghị Việt Nam đưa ra mục tiêu tốc độ tăng chi NSNN danh nghĩa không quá 10-11%/năm để phù hợp với ngưỡng nợ công này.
Tài liệu tham khảo:
Baum, Anja & Eyraud, Luc & Hodge, Andrew & Jarmuzek, Mariusz & Kim, Young & Mbaye, Samba & Ture, Elif, 2018. "How to calibrate fiscal rules : a primer," MPRA Paper 86423, University Library of Munich, Germany.
Luc Eyraud & Xavier Debrun & Andrew Hodge & Victor Duarte Lledo & Catherine A Pattillo, 2018. "Second-Generation Fiscal Rules; Balancing Simplicity, Flexibility, and Enforceability," IMF Staff Discussion Notes 18/04, International Monetary Fund.
IMF, 2018. Vietnam. “Fiscal Rules in Vietnam: Calibration and Options,” SM/17/157, IMF.