Phóng viên: Xin ông cho biết S&P nâng xếp hạng tín nhiệm cho Việt Nam dựa trên cơ sở nào?
Cục trưởng Trương Hùng Long: S&P nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam năm 2022 dựa trên cơ sở nền kinh tế đang trên đà phục hồi vững chắc trong bối cảnh Chính phủ gỡ bỏ các hạn chế di chuyển trong nước và xuyên biên giới. Triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ, vị thế đối ngoại vững vàng và thu hút dòng vốn FDI bất chấp sự gián đoạn của đại dịch là những điểm sáng trong hồ sơ tín dụng của nước ta. S&P đánh giá cao tỷ lệ tiêm chủng được cải thiện ấn tượng và bước chuyển linh hoạt trong chính sách kiểm soát COVID. Dư địa chính sách tài khóa vẫn dồi dào trong bối cảnh nợ công giảm mạnh cho phép nền kinh tế ứng phó với rủi ro vĩ mô. Bên cạnh đó, sự cải thiện rõ rệt về quy trình, thủ tục hành chính của Chính phủ, đặc biệt liên quan đến chất lượng quản trị các khoản nợ được bảo lãnh, là yếu tố quan trọng khiến S&P quyết định nâng hạng của Việt Nam.
Phóng viên: Ông có thể cho biết điều này có ý nghĩa như thế nào đối với chúng ta ở thời điểm này?
Cục trưởng Trương Hùng Long: Lần gần nhất S&P nâng hạng cho Việt Nam lên BB là tháng 4/2019. Như vậy, sau 4 năm S&P tiếp tục có quyết định nâng hạng cho Việt Nam. Điều này thể hiện sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế về các nỗ lực chỉ đạo, điều hành của Đảng, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam để ổn định và phục hồi kinh tế vĩ mô, củng cố nền tảng chính trị - xã hội.
Việc nâng hạng tín nhiệm có ý nghĩa hết sức tích cực, tạo hiệu ứng lan toả cho toàn bộ nền kinh tế.
Đối với Chính phủ, trong bối cảnh cần huy động các nguồn lực cho Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, việc nâng hạng góp phần giúp Chính phủ mở mang các kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển với chi phí hợp lý.
Đối với doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại góp phần đa dạng hóa nguồn tài chính, cải thiện chi phí huy động vốn nước ngoài.
Đối với quốc gia, góp phần nâng cao uy tín của quốc gia, mặt khác gia tăng niềm tin đối với các nhà đầu tư quốc tế, giúp đẩy mạnh thu hút nguồn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam.
Phóng viên: Ông có thể cho biết một số trọng tâm cần tập trung cải thiện để Việt Nam nâng hạng lên mức xếp hạng tín nhiệm Đầu tư trong thời gian tới
Cục trưởng Trương Hùng Long: Theo đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm, hai trụ cột Việt Nam cần cải thiện là về quản trị cụ thể là cải thiện chất lượng thể chế, quản trị, công khai minh bạch dữ liệu và thứ hai là về khả năng ứng phó với rủi ro từ bên ngoài.
Về quản trị, chúng ta cần tiếp tục cải thiện các chỉ số quản trị đã được công bố toàn cầu, nâng cao các tiêu chuẩn công bố dữ liệu và cải thiện chất lượng và tính kịp thời của dữ liệu cũng như đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số. Trên thực tế, đây là các định hướng, nhiệm vụ Chính phủ đã chỉ đạo sát sao để các bộ, ngành, cơ quan có liên quan cùng thực hiện.
Ngoài ra Việt Nam cần cải thiện khả năng chống chọi với các rủi ro từ khu vực đối ngoại. Cần cải thiện hơn nữa các vấn đề mang tính cơ cấu ở khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo hạn chế các rủi ro tiềm ẩn từ nghĩa vụ nợ dự phòng đối với ngân sách nhà nước.
Phóng viên: Mới đây, Đề án Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia đến năm 2030 đã được các cấp có thẩm quyền chính thức phê duyệt, trong đó mục tiêu của Việt Nam là đạt mức xếp hạng Đầu tư tới năm 2030. Sự kiện S&P nâng hạng lần này có tác động như thế nào đến việc triển khai thực hiện các mục tiêu tại Đề án?
Cục trưởng Trương Hùng Long: Thực hiện mục tiêu tổng quát của Đảng và Nhà nước về việc nâng cao hiệu quả trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia đến năm 2030 tháng 4/2022. Đề án này đã đặt mục tiêu đưa hệ số tín nhiệm của nước ta lên mức Đầu tư tới năm 2030, qua đógóp phần giảm chi phí huy động vốn và giảm mức rủi ro tín dụng quốc gia.
Theo thang đánh giá xếp hạng tín nhiệm của S&P, mức BBB- là mức khởi điểm xếp hạng Đầu tư. Với việc Việt Nam đạt được mức BB+ từ ngày 26/5/2022, ta chỉ còn đúng một bậc để đạt mục tiêu của Đề án. Việc S&P nâng hạng tại thời điểm này tạo động lực rất lớn để Chính phủ, các bộ ngành liên quan triển khai đồng bộ, khẩn trưởng các giải pháp đã nêu tại đề án. Đó là các giải pháp tổng thể phát huy các thế mạnh hiện có trên tất cả các ngành lĩnh vực, phủ rộng các hoạt động về kinh tế, an sinh xã hội, môi trường.
Bên cạnh những giải pháp về cải thiện chất lượng thể chế, xây dựng nền tảng vững mạnh cho tài chính công và lĩnh vực ngân hàng, việc tăng cường hiệu quả, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia, tăng cường hợp tác với các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và các tổ chức quốc tế là hết sức quan trọng. Nhiệm vụ đặt ra nhằm truyền tải những thành tựu kinh tế - xã hội mà Việt Nam đã đạt được, chia sẻ những cam kết của Chính phủ trong việc phát triển kinh tế, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian tới, làm cơ sở để thuyết phục các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đánh giá sát và tích cực về hồ sơ tín nhiệm của Việt Nam.
Tổng quan về hệ số tín nhiệm quốc gia
Hệ số tín nhiệm quốc gia (hay còn gọi là định mức tín nhiệm quốc gia) phản ánh khả năng và mức độ sẵn sàng trong tương lai của một quốc gia trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của chính phủ một cách đầy đủ, đúng hạn. Hệ số này là thước đo định tính về khả năng vỡ nợ của chính phủ do các cơ quan xếp hạng tín nhiệm đưa ra dựa trên đánh giá định lượng về các chỉ số nợ, thu chi ngân sách, dự trữ ngoại hối, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, đầu tư, lãi suất... cũng như đánh giá định tính về tình hình chính trị và triển vọng kinh tế vĩ mô trong tương lai.
Đây là chỉ số cơ bản được các nhà đầu tư xem xét như là một yếu tố để xác định mức độ rủi ro và khả năng sinh lời trước khi có quyết định đầu tư vào quốc gia đó. Đánh giá xếp hạng tín nhiệm thường thực hiện hàng năm hoặc khi có sự kiện phát hành hoặc các sự kiện có tác động tiêu cực đến hồ sơ tín dụng. Kết quả đánh giá xếp hạng tín nhiệm thể hiện thông qua hệ số tín nhiệm và triển vọng tín nhiệm.
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm thông thường sử dụng các chữ cái A, B, C, D, a và các số 1,2,3 để diễn đạt hệ số/mức độ tín nhiệm của các quốc gia, tổ chức.
Các mức xếp hạng tín nhiệm được chia theo 2 nhóm lớn: Nhóm xếp hạng tín nhiệm ở mức “Đầu tư” với mức xếp hạng từ Aaa/AAA đến Baa3/BBB- và hệ số tín nhiệm ở mức “Đầu cơ” với mức xếp hạng từ Ba1/BB+ đến CC/Ca. Khi các nhà đầu tư mua trái phiếu, họ có thể lựa chọn các trái phiếu do các quốc gia có hệ số tín nhiệm ở mức “Đầu tư” với mức thu nhập ổn định ở mức thấp nhưng ngược lại độ an toàn cao. Đối với các nhà đầu tư mạo hiểm, họ có thể lựa chọn những trái phiếu có hệ số tín nhiệm ở mức “Đầu cơ” với mức thu nhập ổn định cao nhưng độ rủi ro lớn, thậm chí trong những trường hợp hệ số tín nhiệm ở mức thấp thì họ có thể chỉ thu hồi được một phần nợ hoặc không thể thu hồi.
Các cơ quan xếp hạng ngoài việc công bố mức xếp hạng tín nhiệm cho nhà phát hành nợ còn đưa ra nhận xét về triển vọng của mức xếp hạng đó cho thời gian sắp tới (thường là khoảng thời gian từ 12-18 tháng). Mức triển vọng được các cơ quan xếp hạng tín nhiệm đưa ra là triển vọng Tiêu cực, Ổn định và Tích cực. Các mức triển vọng là nhận xét mang tính dự báo, suy đoán trước về tình hình KT-XH, chính trị trong tương lai sẽ có thể tác động đến mức xếp hạng tín nhiệm hiện tại.