Đội ngũ cán bộ công chức, viên chức tại Bộ Tài chính nói chung và cán bộ làm công tác nợ nói riêng trong những năm vừa qua đã được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ một cách đáng kể thông qua nhiều phương thức, bao gồm việc tham gia các chương trình đào tạo, cập nhật kiến thức cho cán bộ ngành tài chính do Bộ Tài chính và các cơ quan trong nước và quốc tế tổ chức, tham gia các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của đối tác phát triển, cũng như cử cán bộ đi biệt phái, học hỏi kinh nghiệm về nghiệm vụ quản lý nợ công tại tổ chức quốc tế. Hiện nay, hầu hết cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực này đều có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, được tuyển dụng từ các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, có trình độ ngoại ngữ, hiểu biết khá sâu về các kỹ năng kinh tế thị trường, tài chính, kế toán, tổ chức, quản lý và đàm phán quốc tế. Tuy nhiên, so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra, năng lực đội ngũ cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực quản lý nợ vẫn còn hạn chế, tổ chức bộ máy còn bất cập, vẫn tồn tại tình trạng vừa thiếu, vừa yếu về trình độ chuyên môn, nhất là hiểu biết những kiến thức về nền kinh tế thế giới, kinh tế khu vực, pháp luật quốc tế...
Trong giai đoạn tới nguồn vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài cho Việt Nam ngày càng giảm do nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Mặt khác, nhu cầu huy động vốn vay để phát triển kinh tế-xã hội vẫn ở mức cao, đòi hỏi việc phải gia tăng tiếp cận các nguồn vốn vay trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, mỗi cán bộ, công chức quản lý nợ cần tiếp cận với nền khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, tiếp thu những kinh nghiệm về quản lý nợ hiện đại, thông thạo cơ chế thị trường và các mối quan hệ quốc tế trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là những kiến thức cơ bản của thị trường vốn quốc tế. Ngoài những yêu cầu chung đối với một công chức nhà nước của ngành tài chính, các cán bộ làm công tác quản lý nợ cần được đào tạo hoặc tự bồi dưỡng để đáp ứng được yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Hiểu biết sâu sắc về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực hội nhập quốc tế và tài chính đối ngoại. Có tư chất vững vàng, kiên định mục tiêu bảo vệ quyền lợi quốc gia, bảo vệ chính trị nội bộ và bí mật quốc gia trên tinh thần hợp tác, hữu nghị.
2. Không ngừng cập nhật, trau dồi những kiến thức cơ bản về kinh tế-tài chính, bao gồm:
- Kiến thức về tài chính: sự vận động của các luồng vốn quốc tế, thị trường vốn, thị trường trái phiếu trong nước và quốc tế, các nghiệp vụ thanh toán, thống kê, kế toán, kiểm toán, tín dụng quốc tế, đầu tư quốc tế.v.v..
- Kiến thức về kinh tế: lý thuyết cơ bản về kinh tế vĩ mô và vi mô; phân tích các mô hình kinh tế động, hiệu quả đầu tư, các chính sách kinh tế xã hội.
- Kiến thức về luật pháp quốc tế: những kiến thức tối thiểu bao gồm Việt Nam hiện đang tham gia các điều ước, công ước quốc tế nào, những nguyên tắc cơ bản của các điều ước, công ước đó là gì để tránh vi phạm khi tham gia vào các quan hệ tài chính đối ngoại.
3. Nắm và hiểu rõ các kỹ năng quan trọng về quản lý, giám sát các biến động đối với danh mục nợ công, tình hình sử dụng vốn và trả nợ.
- Kỹ năng đàm phán và soạn thảo các điều ước quốc tế (Hiệp định, Hợp đồng vay nợ, viện trợ, hợp tác về tài chính...);
- Kỹ năng giao tiếp đối ngoại (hiểu biết về văn hoá, tập quán của nước đối tác, hành vi đối xử văn minh, lịch sự...).
- Sử dụng thành tạo ngoại ngữ và phương tiện tin học ở mức độ phù hợp với từng loại công việc chuyên môn; sử dụng được các phần mềm kế toán nợ, mô hình phân tích hiệu quả đầu tư, phân tích danh mục nợ, phân tích chiến lược nợ.v.v..
Để nâng cao năng lực công tác đòi hỏi mỗi công chức làm việc trong công tác quản lý nợ phải học tập, không ngừng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, phải biết vận dụng chúng một cách có kết quả trong mỗi hoàn cảnh, mỗi cương vị công tác. Trong phạm vi bài viết, xin kiến nghị một số giải pháp chính để tạo điều kiện và động lực khuyến khích cán bộ công chức phát huy được năng lực, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu chung của một cơ quan quản lý nợ chuyên nghiệp, bao gồm:
Thứ nhất, về cơ cấu tổ chức cần có sự điều chỉnh và sắp xếp lại một cách hợp lý trên cơ sở quy định của Luật quản lý nợ công 2017, đảm bảo sự phân công đúng người, đúng việc, tránh chồng chéo, trùng lắp. Về biên chế, nên cố gắng sắp xếp để luôn có một số biên chế “dự phòng” vì trong đội ngũ luôn thường xuyên có một số cán bộ được đi đào tạo dài hạn (luân phiên) ở nước ngoài hoặc trong nước. Việc có kế hoạch định kỳ tuyển chọn nhân viên để có các thế hệ nối tiếp cũng rất quan trọng.
Thứ hai, đảm bảo phân công công việc phù hợp với khả năng, năng lực và sở trường của cán bộ, công chức, viên chức. Đây cũng đồng thời là nhiệm vụ của công tác cán bộ. Việc đánh giá thường xuyên và hợp lý sẽ tạo căn cứ để có các giải pháp tổ chức cán bộ phù hợp. Do vậy, cần tiếp tục thực hiện đổi mới công tác đánh giá cán bộ; xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, vị trí công tác.
Thứ ba, xác định đúng mục tiêu cần đạt được của từng cá nhân cán bộ, công chức quảng lý nợ. Với việc đưa ra mục tiêu rõ ràng, các cá nhân sẽ có động lực và đích phấn đấu, chủ động tìm cách đạt được mục tiêu đó. Cần căn cứ vào mục tiêu của tổ chức và của đơn vị, vào năng lực công tác để cụ thể hóa thành mục tiêu cho từng cá nhân. Trong quá trình xây dựng mục tiêu cho cấp dưới, các nhà quản lý và lãnh đạo đơn vị nên trao đổi, tham khảo ý kiến của họ. Ngoài ra, nhà quản lý cần thường xuyên kiểm soát quá trình thực hiện mục tiêu trong thực thi nhiệm vụ và điều chỉnh khi cần thiết.
Thứ tư, công tác đào tạo bồi dưỡng cần được quy hoạch và tổ chức một cách khoa học. Trên cơ sở phân loại các yêu cầu về kiến thức cơ bản, kiến thức chung, kiến thức chuyên sâu để xác định đúng đắn nội dung của các khâu đào tạo trong nhà trường, đào tạo chuyên sâu tại chức hoặc cử cán bộ đi đào tạo, biệt phái trong và ngoài nước.
Thứ năm, xây dựng môi trường làm việc hiệu quả. Cung cấp đầy đủ trang thiết bị và điều kiện làm việc thuận lợi cho cán bộ làm công quản lý nợ và tài chính đối ngoại, bao gồm: các trang thiết bị tiêu chuẩn và những trang thiết bị mang tính chất chuyên ngành như phần mềm quản lý và các mô hình phân tích về nợ, trang thiết bị phục vụ trao đổi, đàm phán quốc tế (như bộ đàm, các thiết bị phục vụ hội nghị trực tuyến).
Thứ sáu, tiếp tục nghiên cứu đề xuất mô hình đổi mới tổ chức quản lý nợ theo hướng hiện đại và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục điều chỉnh và sắp xếp lại một cách hợp lý cơ cấu tổ chức quản lý nợ trên cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự phân công đúng người, đúng việc. Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu và xây dựng cơ chế, sắp xếp lại một số cơ quan, bộ phận liên quan đến nghiệp vụ phát hành và quản lý công cụ nợ, công ty xếp hạng tín nhiệm, công ty lưu ký, uỷ thác./.