Thay mặt Bộ Tài chính, ông Võ Hữu Hiển – Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại đọc báo cáo tham luận tại Hội nghị, theo đó:
Nhận thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ giải ngân vốn đầu tư công cũng như những khó khăn, thách thức của đại dịch Covid-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã triển khai nhiều biện pháp như ban hành các nghị quyết, công điện, thành lập các tổ công tác đặc biệt thúc đẩy giải ngân; giao một đồng chí lãnh đạo Bộ trực tiếp chỉ đạo công tác giải ngân; định kỳ tổ chức rà soát, kiểm tra các dự án chậm tiến độ để đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho từng dự án, có chế tài đối với các đơn vị, dự án giải ngân chậm; phối hợp chặt chẽ với các địa phương trong công tác giải phóng mặt bằng; họp trực tuyến với nhà tài trợ; điều hòa kế hoạch vốn cho các đơn vị trong nội bộ và đề xuất cắt giảm kế hoạch vốn dự kiến không sử dụng.
Về phía Bộ Tài chính cũng đã quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để hỗ trợ cho công tác giải ngân vốn đầu tư công nguồn nước ngoài như đôn đốc nhập Tabmis, trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vốn nước ngoài như Nghị định số 79/2021/NĐ-CP ngày 16/8/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 97/2018/NĐ-CP về cho vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ, Thông tư số 48/2021TT-BTC ngày 28/6/2021 Hướng dẫn biểu mẫu báo cáo giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.
Đặc biệt trong tháng 8 và tháng 9 năm 2021, trong bối cảnh dịch bệnh covid-19 diễn biến phức tạp, nhiều địa phương phải giãn cách, Bộ Tài chính đã tích cực làm việc trực tuyến và trao đổi với tất cả các chủ dự án của 13 Bộ, ngành được giao kế hoạch vốn nước ngoài để rà soát, đôn đốc giải ngân, phối hợp xử lý các khó khăn, vướng mắc ảnh hưởng đến giải ngân thuộc phạm vi trách nhiệm của Bộ Tài chính. Đồng thời, Bộ Tài chính đã chỉ đạo rút ngắn thời gian thực hiện công tác kiểm soát chi và giải quyết đơn rút vốn nếu đầy đủ hồ sơ. Đến thời điểm báo cáo, Bộ Tài chính đã nhận và xử lý 620 bộ hồ sơ rút vốn, không để tồn đọng hồ sơ.
2. Về giải ngân đầu tư công nguồn vốn nước ngoài 9 tháng năm 2021 của các Bộ, ngành:
- Tại Quyết định số 2185/QĐ-TTg ngày 21/12/2020, Thủ tướng Chính phủ đã giao cho các Bộ, ngành, địa phương kế hoạch vốn đầu tư công năm 2021, trong đó nguồn nước ngoài là: 51.550 tỷ đồng, trong đó của Bộ ngành là 16.637 tỷ đồng; địa phương: 34.913 tỷ đồng.
- Các Bộ, ngành nhập dự toán trên hệ thống Tabmis đến hết tháng 9/2021 là 13.043 tỷ đồng, đạt 78%.
- Đến 06/10/2021, lũy kế giải ngân vốn đầu tư công nguồn vay nước ngoài kế hoạch vốn năm 2021 của các Bộ ngành đạt 19,03% (3.166 tỷ đồng).
- Cụ thể việc giải ngân vốn đầu tư công nguồn vay nước ngoài trong 9 tháng đầu năm 2021 của Bộ, ngành như sau:
+ Vẫn còn 7/13 Bộ có tỷ lệ giải ngân 0%, gồm: Bộ Quốc phòng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
+ 4/13 Bộ có tỷ lệ giải ngân trên 20% kế hoạch vốn là: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (39,32%), Bộ Giao thông vận tải (29,15%), Bộ Giáo dục và Đào tạo (27,07%), Bộ Tài nguyên và Môi trường (21,15%).
+ 2/13 Bộ (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) có giải ngân nhưng tỷ lệ giải ngân còn thấp so với kế hoạch vốn được giao (dưới 20% kế hoạch vốn).
Tại Hội nghị, Bộ Tài chính làm rõ có một số khác biệt trong cách thức thống kê số liệu giải ngân của Bộ Tài chính và các Bộ, ngành. Theo đó, số liệu của Bộ Tài chính là trị giá đề nghị rút vốn của Chủ dự án được gửi tới Bộ Tài chính, trong khi số liệu của các Bộ, ngành, bao gồm cả số kiểm soát chi nhưng chưa gửi đề nghị rút vốn cho Bộ Tài chính. Theo số liệu của Kho bạc nhà nước, kiểm soát chi nguồn vốn vay nước ngoài kế hoạch vốn năm 2021 của các Bộ ngành đạt tỷ lệ 21,52% (3.580 tỷ đồng). Như vậy số kiểm soát chi và số giải ngân của các Bộ, ngành có sự chênh lệch không lớn.
Nhận xét:
- Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công của các Bộ, ngành là 19% kế hoạch vốn, tuy nhiên còn thấp so với kết quả giải ngân nguồn vốn đầu tư công trong nước của các Bộ, ngành (đạt khoảng 45,46% kế hoạch).
- Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp khiến cho việc thực hiện các dự án đầu tư công nói chung, dự án sử dụng vốn nước ngoài nói riêng bị đình trệ. Mặc dù Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chủ quản, các chủ dự án, cũng như Bộ Tài chính đã thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt và đồng bộ để tháo gỡ vướng mắc nhằm thúc đẩy giải ngân như trên nhưng cho đến thời điểm này có thể khẳng định giải ngân vốn đầu tư công nguồn nước ngoài năm 2021 là không đạt kế hoạch đề ra. Với khoảng 1/4 thời gian còn lại từ nay cho đến hết năm 2021, việc hoàn thành trên 95% kế hoạch được giao hầu như là không khả thi.
Tính đến ngày 22/9/2021, Bộ Tài chính đã nhận được 9 văn bản của các Bộ, ngành (gồm Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng, Viện Hàn lâm và Công nghệ Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Giao thông vận tải) đề nghị trả lại kế hoạch vốn với tổng giá trị là 8.054 tỷ đồng, chiếm khoảng 44,08% kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính phủ giao. Số vốn này có thể phải điều chuyển cho các Bộ, địa phương có nhu cầu giải ngân vượt kế hoạch hoặc buộc phải hủy kế hoạch vốn theo quy định.
3. Nguyên nhân chậm giải ngân vốn đầu tư công nguồn vay nước ngoài và phải trả kế hoạch vốn:
Việc giải ngân đầu tư công vốn nước ngoài chậm và trả lại kế hoạch vốn do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và bất khả kháng. Trên cơ sở các văn bản của các Bộ ngành gửi đến và trao đổi từ các cuộc họp trực tiếp, trực tuyến với các cơ quan chủ quản, các chủ dự án, các ban quản lý dự án, Bộ Tài chính khái quát một số nguyên nhân sau:
a) Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp từ tháng 4/2021 đặc biệt trên địa bàn 19 tỉnh phía Nam khiến cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA, vay ưu đãi bị đình trệ, nguồn cung vật liệu, nhân công, nhập khẩu thiết bị, chuyên gia không triển khai được do hầu hết các hoạt động gắn với yếu tố nước ngoài, thậm chí nhiều dự án hoặc Ban quản lý dự án nằm trong vùng đỏ phải dừng toàn bộ hoạt động triển khai dự án, dẫn đến không có khối lượng để làm căn cứ giải ngân theo quy định.
b) Chậm tiến độ hoặc không có khối lượng giải ngân do các vướng mắc trong quá trình triển khai dự án như: Chậm triển khai các công tác sẵn sàng cho đầu tư (chậm giải phóng mặt bằng, tái định cư, thiết kế cơ sở, chậm trong đấu thầu, ký hợp đồng...); đang trong quá trình thực hiện các thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, điều chỉnh hiệp định vay; khó khăn về xác nhận khối lượng hoàn thành với nhà thầu nên chưa thể hoàn thiện được các chứng từ để thực hiện các thủ tục rút vốn, hoặc đã có khối lượng, nhưng hồ sơ nghiệm thu khối lượng còn chưa thống nhất hoặc phải chờ các xác nhận, đối chiếu khối lượng 3 bên giữa chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn nên chưa thể chốt số liệu để kiểm soát chi và đề xuất giải ngân.
c) Công tác kế hoạch vốn chưa tốt dẫn đến không thể giải ngân hết kế hoạch vốn như Chưa thể phân bổ hết kế hoạch vốn đã được Thủ tướng Chính phủ giao; bố trí kế hoạch cho cả các dự án tạm dừng hoặc hủy; kế hoạch vốn năm đã được giao nhưng dự án chưa hoàn thành các thủ tục đầu tư để ký hiệp định vay.
Mặt khác, giá cả một số hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu (đặc biệt là giá thép) trên thị trường biến động mạnh cũng tác động lớn đến việc triển khai dự án ODA, vay ưu đãi theo tiến độ.
Để đảm bảo phối hợp hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn đầu tư công năm 2021 theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 63/NQ-CP, Công điện số 1082/CĐ-TTg, Bộ Tài chính đề xuất một số giải pháp và kiến nghị như sau:
a) Kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành khẩn trương thực hiện các giải pháp trong phạm vi quản lý của mình và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, trong đó có nguồn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các giải pháp, nhiệm vụ đã đề ra tại Nghị quyết số 63/NQ-CP và Công điện số 1082/CĐ-TTg. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan nghiên cứu việc xem trước hồ sơ, tài liệu trên bản điện tử (sử dụng bản scan) để rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ ở mọi khâu của quá trình triển khai dự án.
Ông Trương Hùng Long kết luận, bế mạc Hội nghị
b) Đối với các cơ quan chủ quản:
- Thực hiện kiểm tra, rà soát, giám sát, đôn đốc thực hiện kế hoạch vốn của các chủ dự án, kịp thời tháo gỡ ngay vướng mắc, khó khăn trong triển khai dự án và giải ngân, chỉ đạo tập trung đẩy mạnh giải ngân các dự án đầu tư có tiềm năng giải ngân, các dự án đã hoàn tất các thủ tục đầu tư, công tác đấu thầu, phê duyệt hợp đồng.
- Các Bộ, ngành sớm có rà soát, thực hiện điều chuyển kế hoạch sang các dự án khác trong nội bộ có tiến độ giải ngân tốt, còn thiếu vốn. Trường hợp không thể điều chuyển trong nội bộ, các Bộ, ngành tổng hợp chính xác số liệu, nêu rõ nguyên nhân của từng dự án điều chỉnh giảm, có văn bản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để phối hợp thực hiện theo đúng chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 63/NQ-CP và của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 1082/CĐ-TTg. Phần kế hoạch vốn còn lại sau khi đã được điều chỉnh giảm, người đứng đầu các Bộ, ngành cam kết giải ngân hết 100%.
- Tăng cường năng lực tổ chức thực hiện dự án ODA ở cấp cơ quan chủ quản, chủ đầu tư và ban quản lý dự án, đảm bảo đội ngũ cán bộ quản lý dự án có năng lực, trình độ chuyên môn cao.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư và các cơ quan liên quan để kịp thời trao đổi với nhà tài trợ trong trường hợp có vướng mắc phát sinh, đặc biệt là các dự án có thay đổi, cần thiết phải điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh hiệp định vay; thực hiện đầy đủ phần trách nhiệm của cơ quan chủ quản, khẩn trương gửi các đề xuất điều chỉnh đến Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính; phối hợp với các cơ quan đẩy nhanh tiến độ thực hiện các thủ tục để sớm báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh.
- Báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các vướng mắc phát sinh, đặc biệt là các vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách nhằm đẩy nhanh tốc độ giải ngân các dự án. Thực hiện chế độ báo cáo định kỳ về tình hình giải ngân vốn ODA, gửi Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính theo đúng quy định.
c) Đối với các chủ dự án:
- Các chủ dự án, Ban quản lý dự án có trách nhiệm khẩn trương hoàn tất các thủ tục về đầu tư, xây dựng, về di dân tái định cư, giải phóng mặt bằng để triển khai thực hiện dự án; Chủ động điều phối, giám sát chặt chẽ công tác thực hiện dự án của các bên liên quan (tư vấn, nhà thầu) theo các nguồn vốn (vay, viện trợ đồng tài trợ, đối ứng), đảm bảo việc thực hiện thông suốt, kịp thời phát hiện các vướng mắc để xử lý hoặc báo cáo cơ quan chủ quản xử lý theo thẩm quyền, xin ý kiến “không phản đối” của Nhà tài trợ, đặc biệt là các tranh chấp hợp đồng (nếu có) để có khối lượng hoàn thành, gửi Kho bạc Nhà nước để xác nhận kiểm soát chi, đủ điều kiện thanh toán, phối hợp với Bộ Tài chính (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại) trong việc giải ngân; chủ động báo cáo cơ quan chủ quản và Bộ, ngành liên quan về các vướng mắc phát sinh trong từng khâu thực hiện dự án để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Chủ Dự án cần tuyển chọn tư vấn đủ năng lực, kinh nghiệm thiết kế dự án, đảm bảo đạt chất lượng, phù hợp với thực tế và tránh phải điều chỉnh trong quá trình triển khai. Trường hợp tư vấn do phía nước ngoài thuê tuyển, lên kế hoạch giám sát chặt tiến độ, khối lượng, chất lượng công việc của tư vấn để có biện pháp xử lý ngay khi phát sinh vấn đề.
- Gửi Kho bạc Nhà nước hồ sơ để làm thủ tục kiểm soát chi ngay sau khi có khối lượng hoàn thành, phối hợp với Bộ Tài chính (Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại) trong việc giải ngân đối với các khối lượng đã được kiểm soát chi, không để tồn đọng, đặc biệt là các khoản hoàn chứng từ tài khoản đặc biệt.
- Chủ động báo cáo cơ quan chủ quản và các Bộ, ngành liên quan về các vướng mắc phát sinh trong từng khâu thực hiện dự án để có biện pháp xử lý kịp thời.
d) Đối với các địa phương có dự án ODA của các Bộ, ngành triển khai: Xử lý các vấn đề vướng mắc liên quan đến giải phóng mặt bằng, tái định cư đảm bảo bàn giao mặt bằng sạch cho dự án đúng tiến độ.
đ) Bộ Kế hoạch và đầu tư khẩn trương: (i) thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 29/6/2021 trong việc tổ chức kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về đầu tư công, trong đó tập trung các dự án lớn, các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài; (ii) chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công nguồn vốn nước ngoài năm 2021 theo chức năng nhiệm vụ; (iii) trong quá trình xây dựng kế hoạch đầu tư công 2022, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành lập kế hoạch vốn năm 2022 cho các dự án đảm bảo đúng, đủ, sát thực tế, hạn chế việc giao thừa, giao nhưng không đủ điều kiện phân bổ dẫn đến phải hủy kế hoạch vốn như tình trạng năm 2021, ưu tiên giao đủ cho các dự án kết thúc giải ngân năm 2022 theo hiệp định vay đã ký kết cũng như cho các dự án sẽ hoàn thành các thủ tục đấu thầu, phê duyệt hợp đồng,… vào cuối năm 2021 có kinh phí để giải ngân năm 2022 theo quy định của hiệp định vay và quy định pháp luật hiện hành.
e) Bộ Tài chính: tiếp tục phối hợp tháo gỡ khó khăn, quyết liệt thực hiện đồng bộ các giải pháp đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công; ứng dụng công nghệ thông tin hơn nữa trong giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi; tiếp tục hoàn thiện quá trình kiểm soát chi, xử lý đơn rút vốn tại Bộ Tài chính, Kho bạc Nhà nước để đảm bảo đúng thời hạn, đúng chế độ quy định, không để tồn đọng hồ sơ mà không có lý do; phối hợp với các Bộ, ngành, chủ dự án giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện giải ngân thanh toán; trao đổi với nhà tài trợ phối hợp xử lý nhanh các hồ sơ giải ngân.
Tóm lại, để hoàn thành nhiệm vụ giải ngân năm 2021 đòi hỏi cần có các giải pháp đồng bộ và quyết liệt của toàn thể hệ thống chính trị, của Chính phủ, Bộ, ngành và địa phương. Đối với các vấn đề phát sinh thuộc phạm vi trách nhiệm, Bộ Tài chính đã và sẽ tiếp tục chủ động phối hợp triển khai các biện pháp để giải quyết. Bộ Tài chính mong muốn các Bộ ngành với tư cách là cơ quan chủ quản cần theo dõi sát sao và chỉ đạo kịp thời các chủ dự án giải quyết các vướng mắc nhằm hoàn thành mục tiêu giải ngân năm 2021./.